Bệnh vảy nến không phải là nhóm bệnh thế kỷ nhưng lại không nhận được sự quan tâm của xã hội, ngược lại bệnh nhân với các mảng da đóng vảy trên cơ thể sẽ khiến các người quanh e dè, không muốn lại gần tại sợ đây là bệnh di truyền nhiễm. Theo một cuộc khảo sát mới nhất từ một hãng dược phẩm của Thụy Sĩ thì 84% người bị vẩy nến toàn thân không được đối xử công bằng. Bệnh lý này chiếm khoảng 2% dân số Châu Á, 5% dân số Châu Âu, và Châu Phi, và chiếm khoảng 10% người bệnh nhiễm bệnh về da liễu. Vậy đây bệnh lý vảy nến là gì? Nó có dẫn đến tác động tới người quanh, tác động tới sinh mệnh của bệnh nhân không? Và kỹ thuật chữa trị nhóm bệnh này ra sao? Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây.

Bệnh lý vảy nến là gì

Chủ yếu xác nó là một bệnh lý rối loạn về da. Do các tế bào da tăng trưởng nhanh hơn bình thường nên da
trở nên đỏ và dày, và qua thời kỳ những lớp da bị tróc vảy và xếp chồng lên nhau.

2. Lý do gây ra bệnh lý vảy nến


Nguyên nhân phổ biến xác thì chưa được xác định, tuy nhiên có khả năng do một trong các yếu tố bên dưới gây căn bệnh vẩy nến:

-Hiện tượng Kobner: đau thương được tạo ra sau những kích thích về lý hóa hoặc những kích thích về cơ học ( chà xát, gãi ).

-Do bệnh nhân bị nhiễm khuẩn: thường hay xảy ra tại trẻ sơ sinh.

-Do yếu tố di truyền: các kháng nguyên HLAW6, B13, B17, DR7 có liên quan đến bệnh lý vảy nến. Trong những người thuộc cùng gia đình thì 70% là anh em hoặc nữ giới song sinh, 30% còn lại là họ hàng trực hệ ( như cha mẹ với con cái )

-Sau khi bệnh nhân sử dụng một số thuốc như corticoid.

-Một số nếu do bị stress quá nặng nên làm nhóm bệnh nặng lên hoặc tái phát.

Căn bệnh vảy nến là gì triệu chứng bệnh và người bị vảy nến cần lưu ý điều gì 1

Dấu hiệu của bệnh lý vảy nến

-Da đỏ toàn thân

-Vùng da đầu có thể bị vảy nến nếu dày lên và phần lớn gàu.

-Có rất nhiều lỗ nhỏ trên mặt móng hoặc móng dày

-Trên da có những mụn mủ nông và khô

-Trên có khả năng có các mảng da bị đỏ và xuất hiện vảy màu trắng, sờ vào biết cứng và khô

-Các khớp bị biến dạng nên bệnh nhân khó cử động trong sinh hoạt cá nhân.

-Những mảng da bị vẩy nến thể mủ thường nhận thấy tại khuỷu tay, đầu gối và da đầu.

-Nhiều người không nhận thấy bệnh vảy nến ra sao, cứ tưởng rằng đó là căn bệnh di truyền nhiễm nhưng thực tế thì không phải. Tuy nhiên nó mang tính di truyển từ đời này qua đời khác ( hiện tượng như cả bố và mje cùng bị thì tỷ lệ 40% là người con cũng bị ).

Triệu chứng và phân loại:

Biểu hiện chung và đặc trưng của nhóm bệnh vảy nến là những mảng dày, đỏ được phủ vì các vảy trắng hay bạc. Bên cạnh đó, căn cứ theo vị trí nhận thấy và đặc điểm của những tổn thương, còn có những triệu chứng riêng biệt theo từng dạng bệnh.

Vảy nến khả năng mảng: các mảng da thường nhận biết ở khuỷu tay, đầu gối và khu vực dưới lưng.

Vảy nến mụn mủ: nhận thấy các mụn mủ tại khu vực da tay và chân.

Vảy nến giọt: các tổn thương có dạng giọt nước nhận biết khắp cơ thể, thường gặp ở trẻ sơ sinh sau một đợt viêm họng tại nhiễm streptococci.

Viêm khớp vảy nến: sưng các khớp ngón tay, ngón chân hoặc xương sống, đầu gối...

Vảy nến móng: móng dày và có những lỗ nhỏ trên bề mặt móng.


Vảy nến da đầu: trên da đầu có vảy hay các mảng da dày màu trắng bạc.

Vẩy nến nếp gấp: thường gặp tại người bị béo phì với các tổn thương ở những vùng nếp gấp của da như: nách, háng, mông...

Thuốc chữa bệnh nhóm bệnh vảy nến

Những thuốc được dùng trong điều trị căn bệnh vảy nến thường bao gồm các loại sau:

Nhóm thuốc corticosteroid (Betamethasone, clobetasol….): nhóm thuốc thường được sử dụng trong chữa trị nhóm bệnh vảy nến, có tác dụng kháng viêm, kháng dị ứng, làm giảm viêm, ngứa và giảm tăng sinh tế bào da.

Khi dùng trong thời kỳ dài, nhóm thuốc này có khả năng gây các tác dụng phụ như teo da, loãng xương, suy thận, ức chế hệ miễn dịch…

Nhóm thuốc retinoid (acitretin, tazarotene…) thường được sử dụng trong chữa bệnh vảy nến nghiêm trọng, đã đề kháng với những thuốc xử lý khác.

Tác dụng phụ của nhóm thuốc này là sinh quái thai, kích ứng da…

Nhóm thuốc dẫn chất vitamin D3 (calcipotriol, calcitriol…): thường được dùng trong xử lý vảy nến mảng hay vảy nến da đầu.

Nhóm thuốc này tạo nên kích ứng da nên tránh dùng trên khu vực mặt.

Nhóm thuốc ức chế miễn dịch (cyclosporin, methotrexate, adalimumab...) , thường được dùng trong trường hợp căn bệnh vảy nến nghiêm trọng, lan rộng và không đáp ứng với những liệu pháp thông thường.

Nhóm thuốc này gây nên độc tính ở thận, tăng huyết áp, giảm sức đề kháng...

Methoxsalen: một chất bắt sáng được sử dụng liên kết với ánh sáng mặt trời hay tia UV trong chữa trị nhóm bệnh vảy nến nghiêm trọng.

Acid salicylic: có tác dụng tiêu sừng, giúp bong tróc vảy dễ dàng và làm bình thưởng hóa lớp sừng ở da.

Polytar: chế phẩm chứa hắc ín than đá, có tác dụng giảm ngứa và làm giảm sự tăng sinh quá mức của da.

Polytar tạo nên kích ứng da và nhuộm màu da, có mùi bực bội nên cần rửa kỹ sau khi sử dụng.

Những thuốc chữa bệnh căn bệnh vảy nến phần lớn tác dụng phụ, nên cần có sự chỉ định và theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc da liễu.

Nguồn:da khoa au a