Bệnh viêm bàng quang cấp tính là một bệnh thường xảy ra đột ngột, trong đó có vài triệu chứng có thể tạo nên người bệnh dễ nhận biết mình đang lâm bệnh. nhiễm trùng bàng quang cấp tính là loại hay gặp nhất trong một vài kiểu viêm đường tiết niệu dưới (niệu quản, bàng quang, niệu đạo). Thương tổn chủ yếu xảy đến tại niêm mạc bàng quang với một vài hình thái phù nề, sung huyết có khi gây xuất huyết. những hội chứng thường xảy đến đột ngột như tiểu tiện buốt kèm theo đau dọc theo từ niệu đạo lên bàng quang. Đau và buốt trong suốt thời gian đi đái và còn kéo dài sau khi giải hết nước tiểu trong nhiều phút. bởi vì niêm mạc bàng quang bị viêm nhiễm nên rất dễ bị kích thích bởi vì đó số lần đi tiểu tiện tăng sinh gây cho người mắc bệnh lúc nào cũng buồn đi giải . tuy nhiên , vì mỗi lần đi đái gây buốt nên người bệnh tiểu không hết nước tiểu phải tạm ngừng bởi vì đau và buốt (gọi là đái dắt). Lúc bị bệnh viêm bàng quang cấp, người mắc bệnh thường có cảm giác tức ở vùng dưới rốn (vùng tương ứng với vị trí của bàng quang).


Mặc dù viêm bàng quang bởi nhiễm khuẩn nhưng ít khi sốt cao mà chỉ sốt nhẹ (hoặc không sốt) nên người mắc bệnh không cảm nhận được. Nước giải thường đục ở đầu bãi hay toàn bãi, đôi khi nước tiểu tiện có máu, gọi là tiểu tiện máu (hoặc giải máu đại thể hoặc giải máu vi thể). tiểu tiện máu đại thể là giải ra máu cùng với nước giải mà ngay người mắc bệnh cũng nhận biết được. tiểu máu vi thể là tiểu tiện ra máu nhưng mắt thường không thể phát hiện mà phải làm kiểm tra soi kính hiển vi tìm hồng cầu trong nước tiểu tiện mới nhìn thấy được. Chính dấu hiệu giải máu đại thể gây ra người mắc bệnh hốt hoảng, lo sợ không biết mình đang mắc bệnh gì.

viêm nhiễm bàng quang cấp gặp ở nữ nhiều hơn nam giới , vì ở đàn bà ngoài việc kết cấu của niệu đạo ngắn thì lỗ giải gần với cơ quan sinh dục ngoài nên vi sinh vật rất dễ theo đường niệu đạo đi lên gây nhiễm trùng bàng quang (người ta gọi là nhiễm khuẩn bàng quang ngược dòng). tuy vậy đối với đàn bà , trong các ngày hành kinh và sau ngày đèn đỏ các ba ngày trong nước tiểu tiện có khả năng còn lẫn một ít hồng cầu, vì thế khi kiểm tra nước tiểu tiện cho bạn nữ nên hỏi kỹ vấn đề này.

Viem bang quang, ngoài những triệu chứng lâm sàng thì siêu âm, chụp X-quang, kiểm tra nước giải , nội soi bàng quang là hết sức cấp bách . Nếu nhiễm khuẩn bàng quang cấp tính mà không nhận dạng sớm và trị bệnh đúng phương hướng thì rất dễ trở thành nhiễm trùng bàng quang mạn tính. Thông thường do người bị bệnh ngại đi xét nghiệm hoặc ngại không nói cho người thân, người nhà biết nhất là những trường hợp vừa mới thành hôn (bởi vì "giao ban" nhiều và lại không đảm bảo vệ sinh) hoặc người cao tuổi, vì thế bệnh dễ trở thành mạn tính. nhiễm khuẩn bàng quang mạn tính thường xảy ra nhiều lần trong một năm với một số hội chứng tương tự như viêm nhiễm bàng quang cấp tính nhưng âm ỉ hơn. bởi nhiễm trùng bàng quang lâu ngày nên thành của bàng quang bị dày lên, xơ hóa gây cho tính đàn hồi của bàng quang bị giảm sút mỗi lần co bóp để tống nước giải ra ngoài, khác thường ở người cao tuổi nên sẽ có triệu chứng tiểu tiện són.

Cần làm gì khi bị viêm bàng quang cấp

Khi nghi bị nhiễm trùng bàng quang cấp cần bình tĩnh và nên đi kiểm tra ở nơi khám bệnh càng sớm càng tốt. Khi người mắc bệnh đi xét nghiệm bệnh, chuyên gia sẽ xác định yếu tố gây ra viêm bàng quang cấp, để chữa trị và liệu pháp dẫn cho người bệnh các liệu trình ngừa phòng khẩn cấp .

nhiễm trùng bàng quang cấp hầu hết do vi rút , vì thế cần vệ sinh sạch sẽ thường ngày đối với cơ quan sinh dục ngoài, nhất là phái yếu . Cần vệ sinh cơ quan sinh dục ngoài sạch sẽ trước và sau khi làm tình . Đối với nữ giới cần chú ý mỗi lần vệ sinh bộ phận sinh dục ngoài cần dội nước từ trước ra sau để phòng tránh nước bẩn chảy vào cơ quan sinh dục và lỗ tiểu tiện . Khi có bệnh viêm đường sinh dục - tiết niệu cần chữa bệnh triệt để không để mầm bệnh truyền nhiễm đến bàng quang và hệ thống tiết niệu nói chung.

một số bệnh như viêm niệu đạo, âm hộ , bàng quang bởi vì lậu cầu virus hoặc E.coli hoặc chlamydia hoặc mycoplasma... là những vi khuẩn cần chọn kháng sinh thích hợp để trị bệnh , nếu không, công hiệu sẽ không được như ý muốn. cho nên người mắc bệnh phải được trị bệnh theo đơn của chuyên gia chuyên khoa xét nghiệm bệnh và thực hiện một phác đồ nghiêm túc , không tự tiện chuyển biến thuốc, không tự động chuyển biến liều lượng thuốc kháng sinh hoặc không được ngưng chữa bệnh khi thấy hết hội chứng viêm bàng quang cấp. Nếu người mắc bệnh nào tự ý dừng áp dụng thuốc thì mầm bệnh chưa tiêu diệt hết hẳn rất dễ lan ngược dòng gây nhiễm trùng bàng quang, hoặc tạo điều kiện cho virus kháng thuốc kháng sinh.